Chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước (18/7/1974)

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương giải phóng một số địa bàn quan trọng, mở nhiều hành lang nối thông căn cứ với đồng bằng, tạo thế và lực cho quyết tâm mới của Bộ Chính trị, Khu ủy, Quân khu ủy 5 chủ trương mở chiến dịch tổng hợp Thu năm 1974, nhằm tiêu diệt một số chi khu, quận lỵ, cứ điểm kiên cố, nối thông căn cứ miền núi, đánh vỡ hệ thống phòng ngự cơ bản của địch, hướng trọng điểm là phía bắc Quân khu. Trong chiến dịch này, Sư đoàn 2 được giao nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước.

Địa hình liên quan đến trận đánh

Cứ điểm Nông Sơn, nằm về phía tây của huyện Quế Sơn (nay thuộc thị trấn Trung Phước, huyện Nông Sơn), nằm sâu trong vùng giải phóng của ta, cách cứ điểm An Hòa, quận lỵ Đức Dục hơn 8km về phía đông bắc. Đây là cứ điểm cao 298m, trên đỉnh địch san bằng hình bầu dục, lỏm về phía đông; chiều dài mặt phẳng tính từ chiến hào phía Nam đến phía Bắc khoảng 300m, rộng 70m. 

Địa hình liên quan ở phía tây và tây bắc là đồi tranh và cây cao dần, đến dãy các điểm cao 322, 455, 500, 575, 395. Phía đông cứ điểm, phía bên kia sông Thu Bồn có đỉnh Cà Tang, dốc dựng đứng. Phía bắc có ấp Khương Bình, phía đông, đông bắc sát chân cứ điểm là ấp Khương Sơn, phía đông nam sát chân cứ điểm là ấp Xuân Hòa.

Về đường sá liên quan có đường xe chạy ra bến phà Trung Phước, gặp đường 104 từ An Hòa lên nối với đường 105 chạy qua Đèo Le đến quận lỵ Quế Sơn. Còn có con đường mòn nhỏ từ Nông Sơn đi núi Hòa Ngân, dãy điểm cao 575, 322 và Thạch Bích.

Sông Thu Bồn chảy từ phía nam lên phía bắc, chiều rộng đoạn qua cứ điểm khoảng 200m, mùa hè nếu không có mưa dông thì một số đoạn lội qua được. Phía nam cứ điểm có khe Diên cách 3km, có thể lội qua được.

Với vị trí nằm lõm sâu vào vùng giải phóng của ta, gần hậu cứ của Trung đoàn 31, xa hậu phương địch; địa hình có sông rộng núi cao bao quanh, thuận lợi cho ta tổ chức bao vây chia cắt, quan sát, bố trí hỏa lực; hạn chế pháo và xe thiết giáp, xe tăng địch chi viện. Phía đông đông bắc và nam đông nam độ dốc vừa phải, ta có thể lợi dụng tạo bàn đạp tấn công. 

Tuy vậy, việc giữ bí mật rất khó khăn vì bộ đội ta phải vận động qua một số ấp; địa hình dốc khó kéo pháo vào gần, các loại hỏa lực đi cùng bộ binh bắn tà dương, hạn chế độ chính xác. Cây cối, sỏi đá, lô cốt địch… làm cho việc cơ động từ dưới lên của bộ đội có khó khăn.

Tình hình địch và ta

Cùng với Thượng Đức, Nông Sơn - Trung Phước được địch xây dựng kiên cố như những chiếc khiên chắn bảo vệ căn cứ Đà Nẵng từ phía tây nam, nó có thể khống chế vùng rộng lớn gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn… Chốt giữ Nông Sơn là Tiểu đoàn 78 Biệt động Biên phòng, quân số trên 600 tên, biên chế thành 4 đại đội bộ binh, 1 đại đội hỏa lực hỗn hợp và sở chỉ huy tiểu đoàn. Bên trong cứ điểm thường xuyên có 2 đại đội bộ binh, 1 đại đội hỏa lực và sở chỉ huy tiểu đoàn. Chúng sử dụng từ 1 đến 2 đại đội cơ động bảo vệ vòng ngoài, trong bán kính 3 km; bọn này chủ yếu chốt các điểm cao 322, 575, 395. 

Quanh cứ điểm là 9 lớp rào kẽm gai, 41 lô cốt, khu trung tâm có rất nhiều hầm ngầm, đường giao thông hào. Trên mặt bằng cứ điểm, chúng dựng nổi 17 nhà làm việc, câu lạc bộ, nhà tạm chứa hàng. Nhà kho đạn, quân nhu, xăng dầu bố trí trong tuyến lô cốt, được xây dựng chìm xuống đất, phía trên ngang với mặt bằng cứ điểm. Nhà lính bộ binh ở sát lô cốt và ngay trên chiến hào, nửa chìm nửa nổi, mặt ngoài có lỗ châu mai. Địch trang bị tại Nông Sơn 2 khẩu pháo 105mm, 2 cối 106,7mm, 4 cối 81mm, 6 cối 61mm, 3 trọng liên, 13 đại liên, 2 ĐKZ 57mm, 1 ĐKZ 90mm, 3 xe (1 xe GMC, 1 xe Đost, 1 xe Jeep). 

Nông Sơn cùng với cứ điểm Trung Phước nằm ở bờ đông sông Thu Bồn, thành một hệ thống phòng thủ vững chắc. Địch tuyên bố “Khi nào nước sông Thu Bồn chảy ngược, thì quân Việt Cộng mới chiếm được Nông Sơn”.

Quy luật hoạt động của địch trước trận đánh,chúng tăng cường lùng sục ngăn chặn ở hướng bắc, tây và tây nam; chúng phái 1 số toán biệt kích cải trang cùng với gia đình lính ngụy ở khu gia binh vào các khu rừng xung quanh để thăm dò, đánh hơi ta.

Theo kế hoạch, sáng ngày 17 tháng 7, các đơn vị của Sư đoàn triển khai chiếm lĩnh trận địa, pháo binh đã vào cách cứ điểm 4km thì một tình huống bất ngờ xảy ra, địch dùng trực thăng đổ Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 56 xuống Nông Sơn để thay phiên cho Tiểu đoàn 78. Buổi chiều, có 7 xe GMC chở lính từ An Hòa, Đức Dục đến Nông Sơn. Việc thay quân chưa xong nên đêm ngày 17 tháng 7, Tiểu đoàn 78 chưa rút hết, một số lính về khu gia binh, lính Tiểu đoàn 3 đang chốt giữ phía ngoài rào. Đến 20 giờ, ngày 17 tháng 7, trong cứ điểm Nông Sơn có Tiểu đoàn 78 (thiếu 1 đại đội), Tiểu đoàn 3 (thiếu 2 đại đội), hỏa lực không thay đổi, quân số khoảng 700 tên.

Như vậy, Nông Sơn là cứ điểm có tuyến phòng ngự cơ bản, hệ thống công sự, vật cản vững chắc, hỏa lực mạnh, quân số đông, kết hợp với hệ thống kìm kẹp địch đã xây dựng xung quanh, tạo thành cụm phòng ngự liên hoàn, chi viện hỗ trợ nhau khi bị tấn công; lính Tiểu đoàn 78 thông thuộc địa hình. Tuy nhiên, chúng là lực lượng hỗn hợp, bọn Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 56 vừa đến chưa thông suốt nhiệm vụ, phương án bố phòng. Thời điểm giao thời giữa 2 đơn vị nên bị đánh chúng sẽ bị động, lúng túng và dễ rối loạn.

Khu vực liên quan trận đánh có 3 thôn, thôn Khương Bình có 2.500 nhân khẩu, thôn Khương Sơn có 1.500 nhân khẩu. Cả 2 thôn này chưa có cơ sở của ta, nhân dân bị địch kẹp chặt từ 20 năm nay. Riêng thôn Xuân Hoà có 1.500 nhân khẩu, phần lớn dân bị địch xúc từ vùng giải phóng vào, đã hiểu cách mạng, có cơ sở ta. 

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu, Sư đoàn giao cho Trung đoàn 31 tiêu diệt và tảo trừ địch, làm chủ cứ điểm Nông Sơn và các khu vực lân cận, mở rộng vùng giải phóng Nông Sơn - Trung Phước. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ để lại một bộ phận chốt giữ, lực lượng còn lại cơ động về vị trí quy định chờ lệnh. Sư đoàn tăng cường cho Trung đoàn một đại đội cối 120mm có 2 khẩu và 250 đạn; 4 B72, đạn 50 viên; 1 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm (thiếu 1 đại đội) có 10 khẩu, 1 tiểu đội súng phun lửa loại nhẹ (thiếu) 2 khẩu, 2 bộ FR, 1 đại đội vận tải; quá trình chiến đấu, được pháo xe kéo của Sư đoàn chi viện.

Thời điểm này, Trung đoàn 31 có 3 tiểu đoàn bộ binh (Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 9), 1 đại đội cối 82 có 4 khẩu; 1 đại đội ĐKZ có 4 khẩu 75mm, 2 khẩu 82mm; đại đội súng máy phòng không 12,7mm có 6 khẩu; 1 đại đội trinh sát; 1 đại đội công binh; 1 đại đội thông tin; 1 đại đội vận tải và các phân đội phục vụ khác.

Tiểu đoàn 8 ra quân có 190 tay súng (trừ phục vụ), đại đội nhiều nhất 58 tay súng, đại đội ít nhất 44 tay súng. Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 mỗi tiểu đoàn có từ 150 đến 160 tay súng. Trang bị cơ bản của mỗi tiểu đoàn ngoài AK, trung liên, mỗi đại đội có 6 súng B40, 2 súng B41, 1 cối 60mm; đại đội hỏa lực gồm: 2 cối 82mm, 2 đại liên, 2 súng B41, 1 khẩu ĐKZ 82mm. Các trang bị khác như mìn 30kg, bộc phá ống 1,2m và 0,6m, bộc phá ôm, lựu đạn, thủ pháo, xẻng, cuốc; mỗi chiến sỹ làm nhiệm vụ vây lấn có thêm 20 bao cát. 

Trung đoàn 31 nói chung, chủ yếu là Tiểu đoàn 8, cán bộ từ cấp trung đội đến trung đoàn đã qua chiến đấu 100%, chiến sỹ qua chiến đấu 50%. Đơn vị đã có một số kinh nghiệm đánh địch trong công sự vững chắc bằng chiến thuật bao vây đánh lấn ở địa hình đồi núi. Trong xuân hè năm 1974, Tiểu đoàn 8 đã trải qua 3 tháng huấn luyện đánh địch trong công sự vững chắc bằng chiến thuật vây lấn; Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 9 huấn luyện 2 tháng chiến thuật vận động bao vây tấn công.

Quyết tâm và phương án chiến đấu của đơn vị

Căn cứ tình hình địch và ta, Trung đoàn xác định tư tưởng chỉ đạo là “Đánh chắc, diệt gọn”. Về cách đánh, sử dụng chiến thuật bao vây đánh lấn tốc độ nhanh, chia làm 4 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Tổ chức trinh sát nắm địch, dò mìn, đặt mìn phá rào; thực hành vây sát địch ở vị trí bàn đạp tấn công. Khi có lệnh đồng loạt nổ mìn mở cửa, đánh chiếm đầu cầu (vị trí có lợi, then chốt, quan trọng), củng cố các bàn đạp, giữ chắc đầu cầu, nhanh chóng đưa các đơn vị vào vị trí chiếm lĩnh triển khai tiến công. 

Giai đoạn 2: Khi pháo xe kéo bắn phá hoại, khẩn trương đào công sự, trận địa, lần lượt đưa hỏa lực lên chiếm lĩnh, nhanh chóng điều chỉnh đội hình, bổ sung nhiệm vụ. 

Giai đoạn 3: Khi pháo xe kéo được lệnh ngừng bắn, hỏa lực đi cùng của các đơn vị trực tiếp chi viện cho bộ binh mở cửa và xung phong đánh chiếm đầu cầu, mở rộng, thọc sâu và phát triển đánh chiếm các mục tiêu bên trong cứ điểm. 

Giai đoạn 4: Bộ phận thọc sâu, phối hợp với bộ phận phát triển đánh 2 bên nhanh chóng đánh thẳng vào mục tiêu then chốt, tổ chức đánh chiếm hầm ngầm, lô cốt cố thủ, đánh hết mục tiêu, tảo trừ kỹ và tổ chức chốt giữ vững chắc. Trung đoàn xác định mục tiêu chủ yếu là cứ điểm Nông Sơn; mục tiêu then chốt là Sở chỉ huy tiểu đoàn địch ở mỏm cao phía bắc. Hướng tiến công chủ yếu là hướng nam đông nam, hướng tiến công thứ yếu là hướng đông bắc. 

Trung đoàn tổ chức toàn bộ lực lượng thành 9 bộ phận, trong đó Tiểu đoàn 8 làm nhiệm vụ chủ công, vây lấn tốc độ nhanh tiêu diệt cứ điểm; Tiểu đoàn 9 làm nhiệm vụ đánh địch vòng ngoài và bao vây đón lõng; Tiểu đoàn 7 làm nhiệm vụ dự bị. Tiểu đoàn 8 bố trí trên hướng chủ yếu, phía nam cứ điểm và hướng thứ yếu, phía bắc cứ điểm. Tiểu đoàn 9 bố trí ở ấp Khương Bình, dùng một trung đội đón lõng ở mỏ than chặn bọn rút chạy, dùng 1 đại đội đón lõng ở đông nam Khương Bình đến Phường Rạnh 1. Tiểu đoàn 7 bố trí ở khu vực 455,  575 và 1 bộ phận bố trí ở tây, tây bắc cứ điểm, cách cứ điểm khoảng 800 - 1.000m. 

Đại đội pháo phòng không 12,7mm, bố trí 2 khẩu ở sân bay trực thăng đông nam cứ điểm; 1 khẩu bố trí mỏm nhô ra phía nam cứ điểm; 1 khẩu bố trí ở đồi bắc cứ điểm; 2 khẩu bố trí ở gò C đông bắc cứ điểm. Đại đội cối 82mm, bố trí 2 khẩu ở tây nam cứ điểm; 2 khẩu tây bắc cứ điểm. Đại đội ĐKZ, bố trí 2 khẩu ở khu vực sân bay (cũ) đông nam cứ điểm; 1 khẩu bố trí ở phía nam cứ điểm; 1 khẩu bố trí phía bắc cứ điểm; 2 khẩu bố trí ở khu vực gò C. Riêng Tiểu đoàn pháo phòng không 12,7mm của Sư đoàn tăng cường bố trí thành 5 cụm (mỗi cụm 2 khẩu) tại các điểm cao 322, 455, 575, 500 và 395. 

Nhiệm vụ cụ thể của Tiểu đoàn 8 là tiêu diệt cứ điểm Nông Sơn bằng chiến thuật bao vây đánh lấn tốc độ nhanh, dứt điểm trong 1 ngày đêm; sau khi hoàn thành nhiệm vụ sử dụng 1 đại đội (thiếu) ở lại chốt giữ cứ điểm. Tiểu đoàn 9 tiến công tiêu diệt nhanh gọn quân cơ động và lực lượng địa phương quân trong thôn Khương Bình, tạo thế vây cắt quân địch ở vòng ngoài cứ điểm; chặn đánh quân ứng viện hướng bắc xuống, đón lõng diệt địch ở cứ điểm tháo chạy ra; sau giải phóng hỗ trợ nhân dân về vùng giải phóng. Tiểu đoàn 7 làm lực lượng dự bị, vây diệt địch chạy ra ngoài và sẵn sàng nhận nhiệm vụ chi viện dứt điểm cứ điểm khi có lệnh.

Diễn biến trận đánh

Để vào vị trí tập kết, toàn Trung đoàn tổ chức thành 5 khối, đi một trục chính, rẽ làm 4 hướng và xuất phát ở 5 thời điểm khác nhau. Khối xuất phát sớm nhất từ ngày 6 tháng 7 (đi sớm để kéo pháo và chốt 1 số vị trí quan trọng), khối xuất phát cuối cùng là ngày 12 tháng 7. Thời gian hành quân khối xa nhất 6 ngày đêm, khối gần nhất 3 ngày đêm. Đến 5, giờ ngày 16 tháng 7, tất cả các đơn vị đến vị trí tập kết đầy đủ, đúng vị trí, an toàn và cơ bản giữ được bí mật. Đến 23 giờ, ngày 17 tháng 7, tất cả các đơn vị đến vị trí chiếm lĩnh đúng quy định, quá trình này ta bắt giữ được 5 người dân của địch đi thăm dò tình hình, còn 5 người khác chạy thoát.

Đúng 0 giờ 5 phút, ngày 18 tháng 7, lực lượng ta mở rào đánh Gà Tang, làm hiệu lệnh chung cho trận đánh. Vài phút sau, Đại đội 6 bấm mìn mở cửa, đồng thời đánh chiếm đầu cầu. Hướng Đại đội 7 bấm mìn không nổ, bộ đội bí mật tiếp cận dùng lựu đạn ném vào lô cốt, tiêu diệt địch, chiếm bàn đạp, củng cố công sự. Ở hướng Đại đội 5, ta đánh một bộ phận địch nằm ngoài công sự. Lúc này, ta chưa sử dụng hỏa lực, chưa đánh nhanh nên chúng nhận định ta chỉ đánh nhỏ lẻ. Chúng bắn pháo sáng và dùng đại liên, M79 bắn ra chung quanh. Lúc 2 giờ, máy bay địch thả pháo sáng, chúng cho cối 81mm bắn rải rác ra phía nam, bọn địch ở Khương Bình, lần lượt rút về trong cứ điểm. 

Sau hiệu lệnh ở núi Cà Tang, Đại đội 2 của Tiểu đoàn 7 bí mật tiếp cận đánh chiếm, 2 giờ 50 phút làm chủ chốt tiền tiêu của địch. 3 giờ sáng, Đại đội 1 Tiểu đoàn 7 và Đại đội 10 của Tiểu đoàn 9 nổ súng đánh chiếm Xuân Hòa, Khương Sơn. Lúc 3 giờ 55 phút đến 5 giờ, lần lượt Đại đội 1 Tiểu đoàn 7 làm chủ Xuân Hòa, Đại đội 10 Tiểu đoàn 9 làm chủ Khương Sơn; 5 giờ, Đại đội 11 làm chủ Khương Bình. Các trận địa hỏa lực của Trung đoàn, Sư đoàn chi viện cho Tiểu đoàn 8 hoàn thành chiếm lĩnh bàn đạp tiến công. 5 giờ 30 phút, trời sáng, địch phát hiện ta vây ở tuyến phía đông (cách từ 400 - 500m), chúng lập tức báo động chiến đấu và dùng hoả lực bắn mạnh ra các hướng có lực lượng ta. Tuy vậy, chúng vẫn chủ quan, cho là ta chỉ pháo kích nên chúng chủ yếu ẩn nấp, khi pháo ta tăng dần mức độ ác liệt, bộ binh dần siết chặt vòng vây, từ 8 giờ đến 9 giờ, địch mới lợi dụng các khoảng pháo bắn thưa, điều chỉnh đội hình, lần lượt cho từng trung đội ra phản kích ta. 8 giờ 5 phút, 1 trung đội do tên Đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 3 của địch đánh ra sườn nam, bị Đại đội 6 của ta diệt 4 tên, bắt sống tên Đại đội trưởng, số còn lại chạy. Ở hướng đông bắc, 1 trung đội của Tiểu đoàn 78 ra phản kích bị Đại đội 5 tiêu diệt, số còn lại co cụm dùng hỏa lực bắn trả; địch điều thêm 1 trung đội khác phản kích đợt 2, Đại đội 5 của Tiểu đoàn 8 diệt 1 số tên, bọn còn lại tháo chạy. 

Bị bao vây, địch trong cứ điểm kêu cứu, chúng cho máy bay OV4 và A37 lên oanh tạc sườn nam, đông nam cứ điểm và sườn đông điểm cao 322 và 575, nhưng bị súng phòng không 12,7mm của ta bắn mạnh nên chúng hoảng loạn, thả bom không trúng đội hình ta. 9 giờ 15 phút, pháo ta bắn trúng hầm chỉ huy Tiểu đoàn 78, tên Tiểu đoàn trưởng và một số sĩ quan tham mưu bị tiêu diệt. Tiểu đoàn 3 của địch đối phó bị động và kêu cứu, một số địch lẫn trốn ra đường ở phía đông cứ điểm. Bộ phận mở cửa vây lấn phía trước lần lượt nhích dần đội hình lên, cách cửa mở từ 100 đến 150m. Từ 11 đến 12 giờ, địch tiếp tục cho máy bay A37 và trực thăng vũ trang thả bom cháy và bắn rốc két xuống khu vực sườn nam, đông nam cứ điểm; trận địa vây lấn phía trước của Đại đội 6 bị cháy, có 6 đồng chí say nắng, 2 đồng chí bị sức ép, 29 quả đạn ĐK82 bị nổ hủy. 

Phát triển đánh chiếm các mục tiêu bên trong, ở hướng chủ yếu, Đại đội 6 Tiểu đoàn 8 tiến công theo 2 hướng (hướng tây và hướng đánh thẳng vào Sở chỉ huy tiểu đoàn địch); Đại đội 7 tấn công hai hướng (hướng đông và đánh thẳng vào Sở chỉ huy tiểu đoàn địch). Ở hướng thứ yếu, Đại đội 5 tấn công theo 3 hướng (hướng đông, hướng tây và đánh thẳng vào Sở chỉ huy tiểu đoàn địch). Đến 13 giờ 30 phút, Đại đội 5 mở thông cửa mở, Đại đội 6 mới phá được 3 hàng rào; riêng Đại đội 7 lợi dụng theo trục đường ô tô nhảy qua được một vài lớp hàng rào cách tuyến lô cốt ngoài 150m. 13 giờ 45 phút, vòng vây ta siết chặt, địch điều Đại đội 1 Tiểu đoàn 78 (thiếu) ra phản kích mở đường tháo chạy nhưng bị Đại đội 5 của ta tiêu diệt hầu hết, số còn lại bỏ chạy. 15 giờ 15 phút, Đại đội 5 đánh chiếm đầu cầu. Lúc này bộ phận mở cửa đánh chiếm đầu cầu của Đại đội 6, Đại đội 7 lùi ra cách lô cốt 80m để bảo đảm an toàn khi pháo, cối bắn dồn dập. Từ 16 giờ đến 16 giờ 50 phút, pháo đi cùng bắn chi viện cho bộ binh mở rộng bàn đạp, đánh sở chỉ huy địch; Đại đội 6 mở thông cửa đánh chiếm đầu cầu.

Đại đội 7 cách lô cốt đầu cầu 50m thì bị 3 khẩu đại liên địch ở hướng tây và nam bắn chặn đội hình, 1 số đồng chí bị thương vong (trong đó có 3 xạ thủ ĐKZ82), Đại đội trưởng Đại đội 7 lệnh cho 2 khẩu B41 và 1 khẩu B40 tập trung diệt đại liên địch. Tiểu đoàn 8 lệnh cho 2 khẩu ĐKZ75 diệt đại liên địch chi viện cho Đại đội 7 đánh chiếm đầu cầu. Trung đoàn lệnh cho Đại đội 5, Đại đội 6 của Tiểu đoàn 8 nâng tốc độ tấn công, nhanh chóng thọc sâu đánh thẳng vào Sở chỉ huy tiểu đoàn địch, chi viện cho Đại đội 7, lệnh cho cối ngừng bắn vào Sở chỉ huy địch. Lúc 17 giờ, Đại đội 7 đánh chiếm đầu cầu, phát triển thọc sâu nhanh vào Sở chỉ huy tiểu đoàn địch. 17 giờ 5 phút, Đại đội 6 cắm lá cờ Quyết chiến quyết thắng lên Sở chỉ huy Tiểu đoàn 3 địch; hai mũi thọc sâu Đại đội 7 và Đại đội 5 đã gặp nhau tại Sở chỉ huy Tiểu đoàn 78 địch; các mũi tiếp tục truy tìm hầm ngầm, cảnh giới các cửa hầm và tảo trừ bắt tù binh. Sau đó, Tiểu đoàn 8 dùng 1 đại đội (thiếu) có 2 khẩu 12,7 mm chốt giữ Nông Sơn, các lực lượng còn lại giải quyết chính sách và cơ động về vị trí quy định. 

 -- Những người lính chiến thắng tại khu chiến Nông Sơn - Trung Phước ngày ấy. Ảnh: Báo điện tử CAND thành phố Đà Nẵng --

Ý nghĩa và giá trị lịch sử của chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước

Với chiến thắng này, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 811 tên, trong đó tiêu diệt 269 tên, bắt sống 520 tên, phóng thích 22 tên; bắn rơi 1 trực thăng. Thu: 208 khẩu súng AR15; 22 khẩu M79; 16 đại liên; 8 khẩu cối 61; 23 súng carbin; 12 súng col; 2 súng bắn tỉa; 1 khẩu ĐK57; 1 khẩu ĐKZ90; 1 súng 12,7mm; 2 pháo105 và khoảng 250 tấn đạn các loại; 27 máy thông tin các loại (22 máy PRC25; 3 máy PRC10; 2 máy 15w). Phá hủy và hỏng: 120AR15; 13 M79; 9 carbin, 10 col; 10 cối các loại (4 cối 61; 5 cối 81; 1 cối 106 7mm); 10 thùng xăng; 7 PRC25; 3 kho đạn; 1 kho gạo. Phía ta, thương vong 62 đồng chí (hy sinh 16, bị thương 46). Như vậy, ta đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm mạnh của địch cắm sâu vào vùng giải phóng, giải phóng khu vực rộng lớn với hàng ngàn người dân ở phía tây huyện Quế Sơn. Cùng với chiến thắng Thượng Đức (07/8/1974) đã mở toang cánh cửa bảo vệ, khống chế phía tây nam căn cứ Đà Nẵng. Chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước, Thượng Đức và diễn biến đánh phản kích thắng lợi sau đó cung cấp thêm cơ sở để Bộ Chính trị Trung ương Đảng khẳng định chủ lực ta đã lớn mạnh hơn chủ lực ngụy, khi ngụy khốn đốn Mỹ không dám nhảy vào cứu nguy. Đó là khẳng định quan trọng để ta hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. 

Thắng lợi của trận Nông Sơn - Trung Phước là thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Khu ủy, Quân khu ủy; chỉ huy đơn vị đánh giá đúng tình hình địch, tình hình ta, xây dựng quyết tâm, phương án đánh địch chính xác; cán bộ, chiến sĩ làm tốt công tác chuẩn bị, nêu cao quyết tâm diệt địch, giải phóng quê hương… Chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước còn là chiến thắng của cuộc chiến tranh nhân dân, của sức mạnh tổng hợp toàn dân, toàn diện. Quá trình chuẩn bị trận đánh, nhân dân đã tham gia mở tuyến đường dài hàng chục km để vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn, pháo vào các vị trí quy định, nhân dân còn đưa máy cày hoạt động trên đồng Tây Viên để tạo tiếng ồn làm phân tán sự chú ý của địch đối với lực lượng mở đường, vận chuyển. Đặc biệt, cùng với đòn tấn công của bộ đội chủ lực, Khu ủy, Bộ Tư lệnh còn giao nhiệm vụ cho lực lượng vũ trang địa phương Quảng Nam, Quảng Đà đẩy mạnh hoạt động rộng khắp, làm cho địch cùng một lúc phải đối phó khắp nơi, không thể tập trung lực lượng chi viên cho Nông Sơn, Thượng Đức. Đó chính là sức mạnh của 3 thứ quân, của cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện.

-- Bia chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước --

Hiện nay, so với địa điểm diễn ra nhiều trận đánh lớn khác trên địa bàn tỉnh thì trên đỉnh Nông Sơn vẫn còn giữ được những chứng tích như bể nước, đường đi, một vài lô cốt địch… Những chứng tích này là minh chứng rất có giá trị về lịch sử, để thế hệ hôm nay và mai sau giữ gìn, phát huy. Chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước mãi mãi đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước, quá khứ hào hùng của vùng đất Nông Sơn - Quảng Nam trung dũng, kiên cường.

Tin liên quan